Ung thư vòm họng
Người đăng: duyluan.py89 Ngày đăng: 01/01/2016
Ung thư vòm hầu (NPC) hay còn được gọi là ung thư vòm họng xảy ra khi các tế bào ung thư phát triển từ các mô trong vòm hầu, khu vực phía sau khoang mũi và phần trên của họng. Vì các tính chất đặc biệt của nó, ung thư vòm hầu thường được nhắc đến như một loại ung thư riêng biệt với các ung thư khác ở vùng đầu – cổ.
Nguyên nhân gây bệnh ung thư vòm họng
Hiện nay người ta vẫn chưa xác định được nguyên nhân chính xác gây bệnh, nhưng việc nhiễm virus Epstein Barr (EBV) được xem là có liên quan đến sự phát triển của ung thư vòm họng. Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vòm họng bao gồm ăn quá nhiều cá muối từ khi còn nhỏ, ăn nhiều thực phẩm bảo quản hoặc lên men và hút thuốc lá. Ngoài ra, còn có một yếu tố mang tính di truyền trong gia đình, những người thân thiết mức độ một (cha mẹ - con cái) với các bệnh nhân ung thư sẽ có nguy cơ phát triển ung thư cao hơn so với những không có quan hệ gần gũi.
Các triệu chứng
- Chảy máu mũi hoặc tắc nghẽn mũi
- Đờm có máu
- Các triệu chứng tai, bao gồm ù tai, khiếm thính
- Đau đầu
- Hạch bạch huyết ở cổ sưng lên
- Sụp mi, nhìn đôi (nhìn một hóa hai, tê mặt do ảnh hưởng của thần kinh sọ não
- Bệnh trở nặng sẽ có các triệu chứng như như sụt cân, mệt mỏi, đau xương, bị xâm nhiễm…
Chẩn đoán và đánh giá
Khi có nghi ngờ bị ung thư vòm hầu, bác sĩ của bạn có thể sử dụng nội soi vòm hầu qua mũi. Một ống soi mềm và nhỏ được đưa qua lỗ mũi vào vùng phía sau của hốc mũi và bất kỳ vị trí nào trông có vẻ bất thường hoặc phát triển bất thường đều cần làm sinh thiết để kiểm tra có phải bệnh lý ác tính hay không. Nếu phát hiện có hạch bạch huyết phình to, bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân làm dùng kim chọc hút lấy mẫu sinh thiết.
Ung thư vòm họng được đánh giá thế nào?
Việc tiên lượng bệnh và chọn lựa phương pháp điều trị sẽ đựa vào giai đoạn của bệnh.
Nếu có các triệu chứng sau đây, bệnh đã diễn tiến vào giai đoạn nặng hơn và do đó nguy bệnh nhân sẽ có khả năng tái phát cao sau khi điều trị:
- Khối bướu nguyên phát xâm lấn đáy sọ (giai đoạn III)
- Sự thâm nhập các dây thần kinh sọ (giai đoạn IVA), điều này dẫn đến sụp mi mắt, nhìn đôi…
- Hạch bạch huyết ở cổ phình to, đặc biệt khi các hạch lớn hơn 6cm (giai đoạn IVB), xảy ra ở hai bên cổ (giai đoạn III), hoặc các hạch ở hố thượng đòn (ở nền cổ, ngay trên xương đòn, giai đoạn IVB).
Ung thư vòm hầu thường di căn đến các vị trí xa như xương, phổi và gan. Những bệnh nhân này bị bệnh tiến triển nặng giai đoạn IVC và mục tiêu điều trị là giảm nhẹ.
Điều trị và chăm sóc
Đối với các bệnh nhân bị ung thư vòm họng không di căn (giai đoạn I đến IVB), phương pháp điều trị chủ yếu là xạ trị.
Với bệnh nhân mắc ung thư vòm hầu ở giai đoạn đầu có thể áp dụng xạ trị đơn thuần.
Đối với các bệnh nhân ở ung thư muộn (khối u xâm lấn đáy hộp sọ hoặc kiểm tra thấy có sự xâm nhiễm dây thần kinh sọ) và/hoặc giai đoạn hạch muộn (các hạch lớn, xuất hiện các hạch cổ hai bên hoặc các hạch lan rộng đến nền cổ), sẽ được áp dụng hóa trị cùng với xạ trị nhằm nâng cao hiệu quả điều trị.
Vai trò của phẫu thuật trong điều trị ung thư vòm hầu rất giới hạn. Phẫu thuật chỉ có thể xem xét áp dụng ở những bệnh nhân có khối bướu tái phát trong vùng mũi sau. Bác sĩ phẫu thuật cũng có thể tiến hành phẫu thuật ở cổ đối với các bệnh nhân vẫn còn sự hiện diện của hạch dù đã trải qua xạ trị, hoặc ở những bệnh nhân tái phát chỉ duy nhất ở hạch cổ.
Hóa trị vẫn là phương pháp điều trị chính cho các bệnh nhân bị ung thư di căn, và cho những bệnh nhân bị ung thư tái phát sau xạ trị.
Bài viết cùng loại