Do sự xâm nhập của các yếu tố thời tiết, khí hậu bất thường, cơ thể nhiễm lạnh và rối loạn. Ðông y gọi cảm lạnh là thương hàn và trị dứt chỉ với một củ gừng nhỏ, một nồi nước xông hoặc một tô cháo.
Các phương pháp điều trị đơn giản
Cháo giải cảm
Ðơn giản nhất là một tô cháo trắng nấu loãng, thêm một ít rau thơm như tía tô, kinh giới, quế hoặc vài lát gừng tươi. Có khi chỉ cần xắt vài lát hành ta, thêm ít hạt tiêu là đã thành một tô cháo giải cảm.
Hơi nước bốc lên từ tô cháo có tác dụng làm giảm sung huyết vùng mũi tốt hơn là hơi nước bốc lên từ một ly nước sôi. Tác dụng này chỉ có khi thêm vào tô cháo những nguyên liệu như đã nói trên.
Lưu ý tác dụng của các loại rau kể trên có được nhờ thành phần chính là tinh dầu. Do đó, nên ăn khi cháo còn nóng và trong lúc ăn nên "tranh thủ" hít hơi nóng bốc lên từ tô cháo càng nhiều càng tốt, bởi vì lúc này, tô cháo còn có tác dụng như một nồi xông nhỏ.
Xông hơi
- Vật liệu: Một nắm lá "xông" có bán ở tất cả các chợ, gồm lá sả, lá bưởi, lá ngũ trảo, kinh giới, ngải cứu... những loại lá này đều có chứa các tinh dầu cay, nóng.
- Cách làm: Rửa sạch các loại lá, bỏ vào nồi đậy kín, thêm nước vào, đun cho nước sôi khoảng 5-10 phút, nhắc xuống để trước mặt người bệnh đang ngồi, trên có trùm một cái chăn (mền) để giữ hơi. Trong lúc xông, người bệnh nên thở chậm và sâu vì tác dụng chủ yếu khi xông là tác dụng qua đường hô hấp... Mồ hôi sẽ ra từ từ, bắt đầu từ trán, cổ, gáy, sau đó đến lưng, ngực, bụng. Nên ngừng xông khi thấy trong mình đã nhẹ bớt, hết cảm giác sợ lạnh, sợ gió. Dùng khăn khô lau mồ hôi, thay quần áo khô rồi nằm nghỉ.
- Lưu ý khi xông: Chỉ nên cho mồ hôi ra từ từ, rươm rướm trên da. Do đó, khi xông nên mở nắp nồi từ từ. Không bao giờ lạm dụng xông nhiều lần vì sẽ làm mồ hôi thoát ra nhiều, khiến cơ thể mất một lượng nước lớn trong thời gian ngắn mà không bù lại kịp. Cũng cần lưu ý khi nấu nước xông: Không nên để sôi quá 15 phút vì sẽ làm các chất tinh dầu (thành phần tác dụng chính trong nồi xông) bay hơi hết.
Trường hợp nào không nên xông?
- Khi bị cảm sốt và ra mồ hôi nhiều.
- Khi cơ thể quá yếu: Theo Y học cổ truyền, khi cơ thể quá suy nhược là tình trạng dương khí yếu. Nếu bị cảm mà xông ra nhiều mồ hôi sẽ càng làm thoát khí dương ra ngoài, khiến cơ thể suy kiệt hơn.
Ðánh gió
Mục đích là đem khí nóng vào cơ thể ngay trên kinh thái dương để cho thấm qua da.
Vật liệu gồm 1 đồng xu tròn (hoặc 1 muỗng bằng kim loại) cạnh tròn, không bén và 1 chai dầu (cù là, dầu nóng...). Có thể dùng 1 củ gừng tươi thay thế cho dầu.
Bắt đầu bôi dầu và dùng tay chà xát dọc 2 bên cột sống, cổ, vai rồi dùng cạnh của đồng xu hoặc muỗng đánh vào vùng đó theo chiều hướng lên hay xuống cũng được. Gọi là "đánh" nhưng thật ra là cạo nhẹ nhiều lần cho mặt da nóng lên.
Ðánh gió đến lúc nào thì ngưng? Thường đánh cho đến khi cơ thể mất cảm giác ớn lạnh, đau nhức cổ gáy. Ða số người dân hiện nay thích đánh gió cho đến khi lưng bầm tím vì cho như thế là "có gió", bầm tím bao nhiêu càng hiệu quả vì "gió" bị trục ra ngoài càng nhiều. Ðây là quan niệm sai lầm vì khi bị nhiễm lạnh, cơ thể chúng ta sẽ đáp lại bằng một loạt các chuỗi phản ứng làm những Mastocyte (dưỡng bào) bị vỡ, phóng thích ra một số chất hóa học, trong đó có chất Histamin. Chất này gây ra một số triệu chứng của sự dị ứng và làm tăng tính thấm của các mao mạch dưới da. Do đó, khi đánh gió ta đã vô tình làm vỡ các mao mạch này, gây chảy máu. Vết bầm "có gió" chính là sự xuất huyết dưới da.
Nếu dùng củ gừng tươi, ta nên chọn củ to, rửa sạch, cho vào cối giã nhuyễn (cả vỏ), vắt nước cốt lên vùng cần đánh gió rồi dùng bã chà xát cho đến khi người nóng lên. Dùng khăn khô lau sạch bã gừng. Vùng cơ thể được chà xát sẽ nóng ấm lên rất dễ chịu mà sau đó vùng da tại chỗ lại không bị lạnh như một vài loại dầu nóng khác.
Khi nào không nên đánh gió? Vì mục đích đem sức nóng vào cơ thể nên phương pháp này không thể dùng trong trường hợp cảm nắng, trúng nắng. Nếu làm có thể gây nguy hiểm.